ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/02/1930 - 03/02/2023)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.
Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối
cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản
chuyên từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế
quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên
ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên the giới
trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân
ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở
các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác- Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra
một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân
tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc
tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Ọuốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối
cảnh trong nước
-
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước
thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dán ta là vong quốc nô, Tô quốc ta bị giày xéo dưới
gót sắt của kẻ thù hung ác". Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã
làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về
chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyền, đó là một chính
sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu
nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẻ ba nước Đông
Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mồi
kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh
tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột
tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất đế lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều
hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống
đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân,
chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến
khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phản hóa giai cắp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức
bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân
áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa Nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần
chủng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã
hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lỗi cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa
và các phong trào đấu tranh của Nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy
nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tô chức và lực lượng cần thiết nên các
phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong
kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa
Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của
Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thẳng lợi. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn
Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,... Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc
tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con
đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành
(tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo
phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước,
Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của
châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và Nhân dân lao động ở
chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyền Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Ọuốc, Người thay mặt những người yêu
nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8
điếm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyên binh
đăng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Ọuốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ
nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa " của Lênin
đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu
tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội
lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biều Đông Dương. Kết thúc Đại hội
ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở
thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người Cộng
sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động
trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước,
vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tố chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng
Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông
(Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những
điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày
17/6/1929, Kỳ Bộ Băc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ
Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng
sản Đảng. Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng
(một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên
Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không
tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư
tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, Hội
nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở
bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết
là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác
để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất
các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức,
bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách
lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tồ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại
hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 03 tháng 02 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử
sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị
đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời,
đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam;
đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp,
đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thế
dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát
triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của
phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát
triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về
mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ
tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam;
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc
Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế
giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thể giới, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng
thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và
tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG MÓC SON
CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 93 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 -
1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa
đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là phong trào
Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay
sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn
cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở
một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định
đường lối cách mạng Việt Nam do Đảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học
quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất,
về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939):
Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính
quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng
được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách
mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt
trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tố chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh
công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới
sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết
bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi
bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945
đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong
kiến đè nặng lên Nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách
mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đâ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba
Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam -
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hô Chí Minh khẳng định: “Chẳng những
giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động
và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuôi đã
lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.
2. Đảng lãnh đạo
đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945- 1975)
2.1. Xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc khảng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ (1945 - 1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946); xây dựng và thông qua
Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống
mới của Nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến
chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả
nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và
thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa
cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những
điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa
của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng
chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của
bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch
chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu ”, buộc Chính phủ Pháp
phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước
ta.
2.2. Kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn
giải phóng, Nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề,
đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ,
thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bàng tầm cao khoa học và nghệ thuật.
Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài;
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết
hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bàng, thành
thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao;
phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất,
bất chấp mọi gian khổ hy sinh của Nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của
các nước xã hội chủ nghĩa và Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng
đã lãnh đạo Nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo
của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhât Tổ quôc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất
của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
đã lãnh đạo Nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế
- xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bấc quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chu nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được
những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ
nghĩa xâ hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn
thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nưóc, thực hiện công cuộc đối mói đất
nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975
đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân vừa ra sức khôi
phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía
Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lẩnh thô quốc gia; đồng thời
tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình
thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của Nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế
tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm;
việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có
nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm
đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng
kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số
21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng
nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương Chỉ
thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp” Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/01/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý
kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985)
thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận
của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
3.2. Từ năm 1986
đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình
tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại
hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để
trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quả độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát
triển đất nước, khắng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục
khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội
nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình
mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước
hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định
rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã
ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng trong công tác xây dụng,
chỉnh đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Trung 4 khóa XII, XIII với quan điểm nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá giá đúng sự thật, gắn chặt phòng
với chủ động tiến công để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, qua đó tạo sự
chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao niềm tin
của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Quốc hội
không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo
cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới. Chính phủ cụ
thế hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển
đất nước, bảo vệ Tố quốc.
- Qua hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và hơn 35 năm
thực hiện đường lối đối mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Diện mạo đất nước và đời sống của Nhân dân có nhiều thay
đổi, ngày càng được nâng cao. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Dân chủ xã hội
chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị
được đây mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được nhiều kết quả tích cực. Cán
bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công
cuộc đôi mới và triên vọng phát triển của đất nước.
- Những thành tựu hơn 35 năm thực hiện đường lối đối mới
đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng
là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của
Đảng ta.
4. Những bài học
kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 93
năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vũng ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay
và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết đế thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vừng chắc cho độc lập dân
tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tô quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm
vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là do sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tôn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành
công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên
định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố
hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác
ngoài việc phụng sự Tố quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng
sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Mọi đường lôi, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy
luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối,
bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III- PHÁT HUY
TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐÁT NƯỚC
NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP
1. Những truyền
thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên
nhiều truyền thống quý báu, thế hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân
tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi
theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt
Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập;
dân tộc ta mới thật sự được tự do; Nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm
no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối;
nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh
nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân
lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác
định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân,
luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân
ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu
Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức
mạnh vô tận của Nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh
của Đảng là sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ
luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và
tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế
quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, nhũng
người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết
gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản
đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép
được Nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để
Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vừng niềm tin và giương cao ngọn
cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng
dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta
hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời
kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và
phát huy truyên thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và
giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền
bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng
viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý
nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt đê. Ngay từ khi mới
ra đời, Đảng đã năm băt đúng xu thế phát triển của thời đại, gẳn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đan vấn
đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triên của cách
mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng
yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
2. Tích cực xây
dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức;
xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh
Những thắng lợi vĩ đại trong 93 năm qua kể từ ngày có
Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng
tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi
mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây
dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều
nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Sau thời gian triển khai thực hiện, Công tác xây
dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản
lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên;
Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh trong nước,
khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có
những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả.
Hòa chung dòng lịch sử hào hùng của cả nước, tỉnh Ninh
Thuận trong những năm 1928-1929 đã có một số tổ chức Đảng, tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời như: Chi bộ Tân Việt cầu Bảo, Chi bộ Tân Việt Đe pô
Tháp Chàm,... Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, đề ra chủ
trương chọn những đảng viên Tân Việt đủ tiêu chuân chuyển thành đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại Ninh Thuận, cơ quan liên tỉnh (Ngũ trang) tiến hành thực
hiện Nghị quyết chuyển đảng vào tháng 3/1930 tại khu vực đồn kiểm lâm Tân Mỹ
(Ninh Sơn). Đến tháng 4/1930, các chi bộ Tân Việt ở Ninh Thuận tiến hành thực
hiện chủ trương chuyển Đảng. Từ đó, Ninh Thuận có các chi bộ Cộng sản đầu tiên
hoạt động, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân
dân trong tỉnh hoà vào phong trào đấu tranh cách mạng của cả nước, đã lãnh đạo bộ
đội địa phương, dân quân du kích, Nhân dân trong tỉnh vùng lên tấn công và nổi
dậy đánh đuổi thực dân Pháp và đánh đỗ chế độ Mỹ - Ngụy, giải phóng tỉnh nhà,
góp phần cùng cả nước bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Trải qua 93 năm tiến hành sự nghiệp cách mạng vĩ đại dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và quân dân Ninh Thuận luôn trung thành với mục
tiêu của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xẫ hội, góp phần hoàn thành cách
mạng giải phóng dân tộc, đã và đang không ngừng nỗ lực vượt qua khó khăn, thách
thức thực hiện chiến lược phát triển kinh tê - xã hội, thực hiện công cuộc đổi
mới, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc
tế.
Nhìn lại năm 2022, tỉnh Ninh Thuận triển khai thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh có những thuận lợi do tình
hình dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát tốt, các chính sách tài khóa, tiền tệ
của Chính phủ đã phát huy hiệu quả, hoạt động sản xuất, kinh doanh có bước phục
hồi, thời tiết và nguồn nước thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp... Tuy nhiên,
nổi lên một số khó khăn, thách thức mới, diễn biến phức tạp hơn, nhất là tình
hình giá cả nguyên, nhiên vật liệu và chi phí đầu vào các ngành sản xuất quan
trọng tăng; một số cơ chế, chính sách mới để thúc đấy tăng trưởng kinh tế chưa
ban hành... đã ảnh hưởng, tác động đến tình hình thực hiện nhiệm vụ, hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của các tầng lớp nhân dân trên
địa bàn tỉnh. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, các cấp, các ngành, địa phương đã bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung
ương, quy chế làm việc, chương trình công tác; tranh thủ được thời cơ, thuận lợi,
chủ động, sáng tạo, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt các giải
pháp thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách; cùng sự đoàn kết, trách nhiệm,
nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, cộng đồng
doanh nghiệp trong tỉnh nên đã thực hiện đạt được kết quả trên các lĩnh vực.
Kinh tế tiếp tục được duy trì ổn định và có bước phục hồi, phát triển trong bối
cảnh có nhiều khó khăn, thách thức. Tốc độ tăng trưởng GRDP 7,42% (kế hoạch
10-11%); GRDP bình quân đầu người đạt 76,8 triệu đồng (kế hoạch 78-79 triệu
đồng); tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 3.494 tỷ đồng đạt 100,1% kế
hoạch; tỷ trọng đóng góp của kinh tế biển vào GRDP 40,71% (kế hoạch 40,6%). Cơ
cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy sản 30% (kế hoạch 27-28%), công
nghiệp-xây dựng 37,6% (kế hoạch 40-41%), dịch vụ 32,4% (kế hoạch 32-33%). Sản
xuất các ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản tiếp tục duy trì ổn định và tăng
trương, chủ trương phát triên nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt két quả
bước đầu. Một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chủ lực phục hồi và tăng
trưởng khá; các dự án năng lượng tái tạo đã hoàn thành tiếp tục phát huy hiệu
quả. Dịch vụ, thương mại, du lịch phục hồi tích cực và tăng trưởng khá. Công
tác xúc tiến, thu hút đầu tư được đẩy mạnh; các dự án trọng điểm, động lực được
tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt
chỉ tiêu đề ra. Văn hóa, xã hội và giáo dục chuyên biến tích cực; các chính
sách an sinh xã hội được triển khai đầy đủ, kịp thời; công tác chăm lo cho các
đối tượng chính sách, hộ nghèo được thực hiện tốt hơn. Chất lượng giáo dục được
nâng lên; công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm được quan tâm. Hoạt
động văn hóa, thế thao, phát thanh truyền hình chất lượng được nâng lên. Tình
hình dịch bệnh được kiểm soát tốt. Tổ chức thành công các hoạt động, sự kiện
quan trọng trên địa bàn tỉnh, nhất là tô chức thành công Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày
tái lập tỉnh Ninh Thuận. Tinh hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xà hội
được bảo đảm; công tác thực hành tiết kiệm, chống lăng phí được tăng cường.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt nhiều kết quả tích cực trên
các lĩnh vực; công tác kiểm tra, giám sát được tập trung triển khai; công tác
phòng, chông tham nhũng, tiêu cực được quan tâm chỉ đạo; công tác dân vận và hoạt
động của Mặt trận, đoàn thể có đồi mới và đạt kết quả tích cực, tạo được sự
đồng thuận, thống nhất cao trong Nhân dân, góp phần quan trọng thực hiện mục
tiêu năm 2022 đã đề ra.
Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn
Đảng bộ và Nhân dân Ninh Thuận vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản
kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo
Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ
đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh,
về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân càng
thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng
trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục
tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng một nước Việt
Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY